Bộ GTVT không đồng ý bỏ giá trần vé máy bay

Bộ GTVT khẳng định nhà nước vẫn sẽ quản lý giá trần vé máy bay nội địa bởi không còn quy định giá trần thì các hãng hàng không hoàn toàn có thể đưa ra giá vé ở mức cao, nhất là một số tuyến có cạnh tranh hạn chế hoặc trong các giai đoạn cao điểm.

Bộ GTVT không đồng ý bỏ trần vé máy bay

Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa có văn bản trả lời các kiến nghị của Hiệp hội Vận tải hàng không (VABA) liên quan đến kiến nghị bỏ quy định về giá trần đối với dịch vụ vận tải hàng không.

Tại văn bản này, Bộ GTVT cho biết, trong quá trình tham gia góp ý dự thảo Luật Giá (sửa đổi), Bộ GTVT có các văn bản gửi Bộ Tài chính về giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa.

Theo đó, Bộ GTVT có quan điểm đề nghị giữ nguyên như dự thảo Luật Giá: “Dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa: Bộ GTVT quyết định giá tối đa, hãng hàng không quyết định giá cụ thể”.

Bộ GTVT không đồng ý bỏ giá trần vé máy bay.

Bộ GTVT không đồng ý bỏ giá trần vé máy bay.

Lý giải về việc khước từ đề xuất của VABA, Bộ GTVT cho biết dịch vụ vận chuyển hàng không có tác động lớn đến đời sống người dân và hoạt động sản xuất – kinh doanh. Việc không quy định giá trần đồng nghĩa nhà nước bỏ công cụ điều tiết và để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ toàn quyền quyết định giá cung cấp dịch vụ.

Khi sửa theo hướng không còn quy định giá trần thì các hãng hàng không hoàn toàn có thể đưa ra giá vé ở mức cao, nhất là một số tuyến có cạnh tranh hạn chế hoặc trong các giai đoạn cao điểm, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.

Hơn nữa, dịch vụ vận chuyển hành khách nội địa vẫn đang là một trong các dịch vụ thuộc loại có thị trường cạnh tranh hạn chế và vẫn đang thuộc tiêu chí do nhà nước định giá theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 21 dự thảo Luật Giá.

Hiện, chỉ có 5 hãng hàng không tham gia thị trường, thị phần vận chuyển hàng không nội địa cũng vẫn có các doanh nghiệp chiếm thị phần trên 30% – chiếm vị trí thống lĩnh thị trường.

“Về mặt dài hạn, khi khả năng cung ứng của vận tải hàng không đáp ứng tốt hơn yêu cầu xã hội; thị trường có sự tham gia đa dạng của nhiều hãng hàng không Việt Nam, thúc đẩy cạnh tranh thực chất bằng giá vé, chất lượng dịch vụ, hành khách được quyền lựa chọn theo nhu cầu, khả năng thì khi đó đề xuất bỏ quy định khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa là phù hợp”, Bộ GTVT nêu rõ.

Khi đã bỏ trần vé máy bay, Bộ GTVT cho biết nhà nước sẽ thực hiện quản lý giá dịch vụ hàng không nội địa theo cơ chế do thị trường tự điều tiết và kiểm soát giá bán của các hãng hàng không theo quy định của Luật Cạnh tranh.

Tuy nhiên, việc dỡ bỏ dần quy định về giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa cần có lộ trình.

Trong giai đoạn trước mắt, để tôn trọng và bảo đảm quyền định giá của doanh nghiệp, Báo cáo tổng kết Luật Hàng không dân dụng Việt Nam và dự thảo Luật giá đã hoàn chỉnh theo hướng chuyển từ quy định khung giá sang quy định giá tối đa nhằm khuyến khích cạnh tranh lành mạnh để giảm giá dịch vụ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

Dự thảo mới về khung giá vận chuyển khách hàng không

Hiện Bộ GTVT đang lấy ý kiến sửa đổi một số điều của Thông tư số 17/2019 về khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa.

Theo Dự thảo thông tư mới, với đường bay dưới 500 km, giá dịch vụ vận chuyển được giữ nguyên theo Thông tư 17. Cụ thể, nhóm đường bay phát triển kinh tế xã hội vẫn có mức giá tối đa là 1,6 triệu đồng/vé một chiều. Nhóm đường bay khác dưới 500 km có mức giá tối đa là 1,7 triệu đồng/vé một chiều.

Với các đường bay từ 500 km đến dưới 850 km, mức giá tối đa đề xuất là 2,25 triệu đồng/vé một chiều. Trong khi theo quy định hiện hành, con số này là 2,2 triệu đồng/vé.

Đường bay từ 850 km đến dưới 1.000 km, mức giá tối đa đề xuất là 2,89 triệu đồng/vé, cao hơn 100.000 đồng so với quy định hiện hành.

Ở khoảng cách đường bay từ 1.000 km đến dưới 1.280 km, Dự thảo mới đề xuất mức giá tối đa là 3,4 triệu đồng, cao hơn 200.000 đồng so với quy định hiện hành.

Cuối cùng, mức giá 4 triệu đồng được đề xuất cho khoảng cách đường bay từ 1.280 km trở lên. Con số này cao hơn quy định hiện hành 250.000 đồng.

Cần phải nói rằng, mức tối đa giá dịch vụ đã bao gồm toàn bộ chi phí hành khách phải trả cho 1 vé máy bay, trừ thuế giá trị gia tăng và các khoản thu hộ doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nhà ga hành khách cũng như dịch vụ bảo đảm an ninh như giá phục vụ hành khách, giá bảo đảm an ninh, hành lý.

Mức tối đa giá dịch vụ cũng chưa tính khoản giá dịch vụ với các hạng mục tăng thêm. Đây là khoản giá do các hãng hàng không quyết định trên cơ sở cân đối khả năng cung cấp dịch vụ của hãng hàng không và nhu cầu của thị trường.

Các hãng hàng không quy định giá vé cụ thể trên đường bay hoặc nhóm đường bay theo phương thức đa dạng giá vé cho mỗi đường bay và chính sách giá giảm thường xuyên dành cho đồng bào, chiến sĩ thường trú tại các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Nguồn: Tạp chí Tài Chính Doanh Nghiệp